• Công Nghệ
  • Ẩm Thực
  • Kinh Nghiệm Sống
  • Du Lịch
  • Hình Ảnh Đẹp
  • Làm Đẹp
  • Phòng Thủy
  • Xe Đẹp
  • Du Học
Du Lịch

Giới thiệu chung về huyện Kim Bôi – tỉnh Hòa Bình

10:32 08/12/2024

Giới thiệu chung về Địa lý, hành chính, lịch sử, dân cư, giao thông và sơ lược về nét văn hóa đặc sắc huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình.

Địa lý của huyện Kim Bôi:

Kim Bôi đã từng có thời gian tên là Lương Thủy - là một huyện miền núi, phần cuối của vùng Tây Bắc (Việt Nam), là đầu nguồn của dòng sông Bôi, một phụ lưu chính của sông Đáy (góp nước cho sông Đáy), thuộc hệ thống sông Hồng. Nơi đây có nguồn suối nước khoáng nóng, rất tốt cho trị liệu y học. Huyện được thành lập ngày 17/4/1959 từ việc tách huyện Lương Sơn. Huyện Kim Bôi phía bắc giáp huyện Lương Sơn và huyện Kỳ Sơn. phía tây giáp thành phố Hòa Bình và huyện Cao Phong. phía nam giáp các huyện Lạc Sơn, Yên Thủy và Lạc Thủy. phía đông giáp huyện Lạc Thủy và huyện Lương Sơn, tất cả các huyện thị này đều thuộc tỉnh Hòa Bình. Diện tích tự nhiên của huyện Kim Bôi là 551,0338 km². Huyện có các núi Đồi Thơi cao 1.198 m, Đồi Bù cao 833 m.

Hành chính huyện Kim Bôi

Dưới triều Lê, vùng đất Kim Bôi thuộc phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hoá. Đến năm Tự Đức thứ 5 (1851), Kim Bôi là một tổng của huyện Mỹ Lương, phủ Quốc Oai.

Ngày 22-6-1886, khi tỉnh Mường Hoà Bình được thành lập, Kim Bôi là một tổng của phủ Lương Sơn thuộc tỉnh Mường. Đến năm 1890, cả phủ Lương Sơn được sáp nhập về đạo Mỹ Đức. Sau đó, ngày 18-3-1891, phủ Lương Sơn sáp nhập trở lại tỉnh Mường Hoà Bình và được đổi tên thành châu Lương Sơn. Lúc này, Kim Bôi gồm 3 tổng: Kim Bôi, Thanh Nông và Tú Sơn. Tháng 9-1910, tổng Thanh Nông sáp nhập về huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông.

Ngày 15-4-1959, huyện Lương Sơn được chia thành hai huyện: Lương Sơn và Kim Bôi. Huyện Kim Bôi mới thành lập gồm 22 xã: Nật Sơn, Hùng Tiến, Bình Sơn, Bắc Sơn, Sơn Thuỷ, Kim Bôi, Kim Tiến, Kim Bình, Hợp Kim, Kim Sơn, Hạ Bì, Thượng Bì, Lập Chiêng, Trung Bì, Hợp Đồng, Vĩnh Đồng, Vĩnh Tiến, Đông Bắc, Thượng Tiến, Kim Truy, Tú Sơn và Dũng Tiến.

Ngày 17-12-1963, xã Tú Sơn được chia thành 2 xã mới là Tú Sơn và Đú Sáng; xã Dũng Tiến chia thành 3 xã mới là Mỵ Hoà, Sào Báy và Nuông Dăm; xã Kim Truy chia thành 3 xã mới là Kim Truy, Nam Thượng và Cuối Hạ. Như vậy, đến thời điểm lúc đó, huyện Kim Bôi có thêm 5 xã mới.

Ngày 3-1-1971, 8 xã của huyện Lương Sơn là: Tân Thành, Hợp Châu, Cao Dương, Cao Thắng, Long Sơn, Thanh Lương, Hợp Thanh, Thanh Nông được sáp nhập về huyện Kim Bôi.

Ngày 27-3-1978, 3 xã Hạ Bì, Trung Bì và Thượng Bì hợp nhất thành xã Hạ Bì, đồng thời thị trấn Bo được thành lập. Ngày 1-7-1999, xã Hạ Bì lại được chia lại thành 3 xã: Hạ Bì, Trung Bì, Thượng Bì; giải thể thị trấn Nông trường Thanh Hà và thành lập thị trấn Thanh Hà.

Từ 1/10/2009 huyện Kim Bôi còn 27 xã và 1 thị trấn gồm: Bắc Sơn, Bình Sơn, Cuối Hạ, Đông Bắc, Đú Sáng, Hạ Bì, Hợp Đồng, Hợp Kim, Hùng Tiến, Kim Bình, Kim Bôi, Kim Sơn, Kim Tiến, Kim Truy, Lập Chiệng, Mị Hòa, Nam Thượng, Nật Sơn, Nuông Dăm, Sào Báy, Sơn Thủy, Thượng Bì, Thượng Tiến, Trung Bì, Tú Sơn, Vĩnh Đồng, Vĩnh Tiến và thị trấn Bo.

Dân cư của huyện Kim Bôi theo thời điểm thống kê

Đến thời điểm 31/12/2014, huyện Kim Bôi có 114 ngàn người gồm dân tộc Mường, Kinh, Dao và các dân tộc khác.

Trước năm 1945, tỉnh Hòa Bình là nơi cứ trú chủ yếu của người Mường. Khi đó, dân cư phân bố theo 4 thung lũng lớn, gọi là 4 mường: Bi, Vang, Thàng, Động. Theo lịch sử phát triển và quy mô phân bố dân cư, người ta sắp xếp: Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động. Ở đây chúng ta hiểu mường là một khái niệm chỉ một cùng cư trú của người Mường (trong tiếng Mường, mường còn có nghĩa là một đơn vị quần cư nhỏ, tương đương với làng trong tiếng Việt).

Lịch sử huyện Kim Bôi, Hòa Bình

Trước năm 1945, tỉnh Hoà Bình có bốn vùng Mường nổi tiếng, được lưu truyền là nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động. Mường Động chính là xã Vĩnh Đồng, huyện Kim Bôi, là một trong số những cái nôi văn hoá của cả vùng, đồng thời là nơi tập trung dân cư với kinh tế phát triển.

Kim Bôi cũng như các nơi khác ở Hoà Bình xưa kia tồn tại chế độ phong kiến lang đạo. ở Kim Bôi, các dòng họ quý tộc làm lang thống trị lâu đời là các dòng họ Quách, Đinh và Bạch.

Sống dưới chế độ lang đạo, người dân bị bần cùng hoá, bị bóc lột hết sức dã man. Nhà lang đặt ra rất nhiều luật lệ và quy định hà khắc, khi nhà ai có việc hiếu, hỷ, làm nhà… đều phải biếu lang một vai trâu, vai bò, xôi, thịt; góp công lao động khi lang có việc…

Năm 1886, thực dân Pháp lập ra tỉnh Mường Hoà Bình và câu kết với bọn lang đạo tạo thành bộ máy tay sai phục vụ đắc lực cho sự thống trị và bóc lột của chúng đối với nhân dân các dân tộc tỉnh Hoà Bình.

Về chính trị, thực dân Pháp dùng thủ đoạn thâm độc để chia rẽ các dân tộc anh em, dùng “thổ lang” trị “thổ dân”. Về văn hoá, chúng thi hành chính sách ngu dân, cả vùng chỉ có một trường sơ học cho con em nhà lang, tổng lý, kỳ hào. Bên cạnh đó, các tệ nạn xã hội như hút thuốc phiện, cờ bạc, mê tín dị đoan được khuyến khích, khiến cho xã hội càng thêm rối ren.

Chính sách thuế hà khắc của chúng cũng khiến người dân điêu đứng, hàng trăm gia đình vì không nộp đủ thuế phải bỏ làng vào rừng sống chui lủi, hoặc tha phương cầu thực khắp nơi.

Năm 1944, tổng số hội viên Hội Cứu quốc ở Kim Bôi lên tới 42 người, phong trào cách mạng phát triển khá mạnh mẽ ảnh hưởng rộng lớn tới các xã Tú Sơn, Hạ Bì, Kim Bôi, Kim Truy, Vĩnh Đồng…

Đầu năm 1945, Nhật hất cẳng Pháp khỏi Đông Dương. ở Lương Sơn nói chung và tổng Kim Bôi nói riêng, phát xít Nhật phá lúa, hoa màu để trồng đay, gai và thầu dầu. Trước sự đàn áp dã man của địch, đầu tháng 6-1945, đội tự vệ chiến đấu xã Nật Sơn được thành lập, gồm 42 chiến sĩ. Tại Cao Dương, mỗi xóm thành lập được 1 tổ Việt Minh. Xã Hạ Bì thành lập được tổ Việt Minh.

Đầu tháng 8-1945, khi thời cơ cách mạng đến, công việc chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền ở Kim Bôi được tiến hành khẩn trương. Ngày 19-8-1945, các tổ Việt Minh ở Nật Sơn đã tổ chức cho quần chúng nổi dậy, sau đó cuộc mít tinh được tổ chức ngay tại sân đình xóm Chi Trong, xã Nật Sơn. Đại diện Việt Minh tuyên bố xoá bỏ chính quyền thực dân, phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng lâm thời xã Nật Sơn. Sau đó, lực lượng cách mạng xã Nật Sơn tiến xuống các xóm trong vùng tổ chức mít tinh tuyên bố xoá bỏ chế độ thực dân, phong kiến.

Tại xã Hạ Bì, sáng 23-8-1945, lực lượng cách mạng xã Nật Sơn kết hợp với tổ Việt Minh và quần chúng giành chính quyền. Chính quyền cách mạng lâm thời xã Hạ Bì được thành lập.

Tại xã Cao Dương, hàng trăm quần chúng kéo ra huyện đường cùng với lực lượng cách mạng giành chính quyền thắng lợi. Tháng 9-1945, các xã còn lại trong huyện cũng lần lượt thành lập chính quyền cách mạng lâm thời.

Sau khi giành được chính quyền, nhân dân bắt tay vào lao động sản xuất khắc phục hậu quả do địch để lại, tích cực thực hiện chủ trương của Chính phủ: “Diệt giặc dốt, diệt giặc đói, diệt giặc ngoại xâm”. Phong trào bình dân học vụ phát triển mạnh mẽ, được triển khai dưới nhiều hình thức thu hút đông đảo mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Lực lượng vũ trang kịp thời trấn áp bọn phản động ngóc đầu dậy quấy phá chính quyền. Nạn đói ở tất cả các xã được đẩy lùi.

Ngày 15-4-1947, thực dân Pháp mở cuộc tấn công lên Hoà Bình. Nhằm đối phó với kẻ thù, du kích các xã Hạ Bì, Tú Sơn phá hỏng đoạn đường từ dốc Cun đến xã Kim Bôi, đồng thời cắm chông, cài bẫy khắp các cánh đồng, bưa bãi. ở các xã Thanh Nông và Thanh Lương, lực lượng vũ trang và nhân dân tổ chức đào hào, hố sâu để cản bước tiến của địch.

Tinh thần kháng chiến của nhân dân rất sôi nổi, thực hiện triệt để tinh thần “bất hợp tác hoàn toàn với giặc”. Trước yêu cầu đặt ra, 6 xã Nật Sơn, Kim Bôi, Hạ Bì, Tú Sơn, Vĩnh Đồng và Kim Truy được cấp trên quyết định xây dựng thành an toàn khu (ATK) vì đây là địa điểm thuận lợi cho việc phòng thủ và tiến công địch cũng như trong chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên toàn tỉnh Hoà Bình.

Trong năm 1949, hàng trăm thanh niên địa phương đã xung phong lên đường tham gia bộ đội chủ lực. Cuối năm 1949, Liên Khu ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu quyết định mở Chiến dịch Lê Lợi, hướng chính tấn công địch là Hoà Bình. Các xã Hạ Bì, Kim Bôi, Nật Sơn đã cử hàng trăm dân công vận chuyển vũ khí từ Thanh Hoá về Hoà Bình, chuẩn bị cáng thương, lương thực, thực phẩm ủng hộ bộ đội, góp phần làm nên thắng lợi của chiến dịch.

Rút khỏi Hoà Bình nhưng thực dân Pháp vẫn âm mưu tái chiếm Hoà Bình, Sơn Tây, Xuân Mai hòng cắt đứt hành lang đông - tây, cô lập Việt Bắc. Để giành lại thế chủ động trên chiến trường, đồng thời chặn đứng sự tiếp tế của ta lên Việt Bắc, tháng 11-1951, thực dân Pháp do tướng Sa Lăng chỉ huy đánh chiếm Hoà Bình. Trong một tuần, chúng đã chiếm được hàng trăm vị trí, đốt phá nhiều làng xóm, bắn giết lợn, gà của nhân dân.

Ngày 18-11-1951, ta mở Chiến dịch Hoà Bình, du kích các xã trong huyện Kim Bôi đã phối hợp với bộ đội chủ lực tổ chức đánh địch trên phạm vi rộng, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, thu nhiều vũ khí.

Là một địa bàn chiến lược quan trọng của Hoà Bình, trong suốt cuộc kháng chiến, Kim Bôi là một căn cứ cách mạng quan trọng. Nhân dân các dân tộc huyện Kim Bôi đã tích cực đóng góp sức người, sức của góp phần làm nên thắng lợi của các Chiến dịch Tây Bắc, Chiến dịch Điện Biên Phủ, đánh đổ thực dân Pháp, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Sau khi hoà bình lập lại, ngày 14-7-1959, Chính phủ quyết định tách huyện Lương Sơn thành hai huyện: Kim Bôi và Lương Sơn. Từ đó đến nay, Đảng bộ và nhân dân huyện Kim Bôi đã luôn tích cực xây dựng cơ sở hạ tầng và thi đua lao động sản xuất để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

Trong thời kỳ đổi mới, tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, quân và dân các dân tộc huyện Kim Bôi đã đẩy mạnh phong trào thi đua, khắc phục mọi khó khăn, thử thách, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Nhờ thế, giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp tăng nhanh, năm 2002, sản lượng lương thực đạt 39.659 tấn. Nhiều hộ dân đã được sử dụng điện, nước cũng như các loại dịch vụ. Hệ thống phát thanh, truyền hình phủ sóng về từng thôn bản phục vụ công tác tuyên truyền chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời đáp ứng nhu cầu văn hoá, tinh thần của nhân dân.

Công tác chăm sóc sức khoẻ người dân được thực hiện tốt, các trạm y tế xã được kiên cố hoá, trang thiết bị y tế được đầu tư. Trong sự nghiệp giáo dục, huyện Kim Bôi được công nhận xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Các phòng học được xây dựng khang trang, lợp ngói, xoá bỏ tình trạng học 3 ca.

Ghi nhận sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân huyện Kim Bôi, Đảng và Nhà nước ta đã trao tặng nhiều huân, huy chương, trong đó, nhân dân xã Lập Chiệng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Đặc điểm giao thông của huyện Kim Bôi

Ngày trước, giao thông chưa phát triển, Kim Bôi là vùng sâu ít người sinh sống, khai khẩn. Người Mường có câu: “Yêu nhau cho thịt cho xôi/Ghét nhau đưa đến Kim Bôi, Hạ Bì” với hàm ý Kim Bôi là vùng đất khó sinh sống. Ngày nay, hệ thống giao thông đường bộ phát triển thuận lợi. Quốc lộ 21A chạy gần rìa ranh giới với huyện Mỹ Đức (Hà Nội) song song với đường Hồ Chí Minh và giao cắt với đường Hồ Chí Minh tại Đồng Danh, xã Phú Thành, huyện Lạc Thủy, gần như theo hướng Bắc Nam, từ huyện Lương Sơn sang tới huyện Lạc Thủy. Đường quốc lộ 12B nối đường 21A (Tại ngã Ba Hàng Đồi, xã Thanh Nông, huyện Lạc Thủy) với đường 6 (Tại đỉnh Cun, huyện Cao Phong), chạy dọc địa bàn huyện, theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Gần cạnh Đường Hồ Chí Minh mới (đoạn Hòa Lạc - Cúc Phương) chạy qua.

Những nét văn hóa đặc sắc của huyện Kim Bôi

Người Mường nói chung và người Mường ở Kim Bôi nói riêng đã lưu giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống cổ xưa, mang đậm đặc trưng của dân tộc, đó là những giá trị văn hóa vật chất và những giá trị văn hóa tinh thần. Nói về dân tộc Mường có câu ca sau: “quần một ống, áo một gang, cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới”.

Lễ hội dân tộc mường

Văn hoá nghệ thuật của người Mường rất phong phú, đa dạng với ngữngthể loại như: hội sắc bùa, trò chơi ném còn, dân ca, múa bông, múa nàng Khọt,…Hội sắc bùa( xéc bùa): theo người Mường, sắc bàu hay còn gọi là “xéc bùa” có nghĩa là xách cồng, là một hội vui, có tính chất giải trí, diễn ra vào dịp đầu năm mới ở khắp bản Mường để cầu chúc cho nhau may mắn, mạnh khỏe trong dịp đầu năm mới. Sắc bùa bao giờ cũng phải có phường do những người biết hát, biết đánh cồng và biết đối gọi là phường bùa. Phường bùa bao giờ cũng có một chủ phường là một người hát giỏi, biết đánh cồng và ứng phó tốt. thường một phường bùa như vậy có khoảng 12 người đánh chiêng, 2 người khiêng thúng đựng tặng phẩm đi cuối và trùm phường. Từ sau mồng hai tết, phường bùa tiến hành đi sắc bùa các gia đình trong xóm. Trang phục của họ phải đẹp, nam mặc áo dài, chít khăn đầu rìu; nữ mặc áo khoác màu vàng, màu hồng, đội nón bằng, đeo vòng tay, kiềng bạc và xích…. đoàn sắc bùa đi đến đâu, xóm làng rộn vang chiêng đến đó. Chiêng là loại nhạc cụ có âm thanh độc đáo, có giá trị cả về vật chất và tinh thần của người mường ở Kim Bôi. Khi đến các gia đình, phường bùa đứng ngoài ngõ đánh bài “khóa rác”, hát xong cổng sẽ mở ra, phường sắc bùa tiến vào sân nhà, vừa đi vừa đánh cồng, sau đó là những bài hát với ngững lời chúc tụng, ngợi ca gia đình sang năm mới sức khỏe, hạnh phúc, thành đạt. Cứ như vậy mọi người vừa hát vừa đánh cồng say xưa, mọi người đón nhận một cách nồng nhiệt, sau khi phường bùa kết thúc, nếu gia chủ là những người giỏi thường, rang, bọ mẹng (những bài hát dân ca đối đáp) thì có thể cất tiếng hát giữ chân phường bùa. Nếu không, gia chủ đem tặng gạo, tặng quà thì phường bùa sẽ sang nhà khác để tiếp tục cuộc hát vui vẻ của mình trong không khí ngày xuân ấp áp.

Nguồn: sưu tầm

  • Điều khoản sử dụng
  • Chính sách bảo mật
  • Cookies
  • RSS
  • Điều khoản sử dụng
  • Chính sách bảo mật
  • Cookies
  • RSS

Trang thông tin tổng hợp melodious

Website melodious là blog chia sẻ vui về đời sống ở nhiều chủ đề khác nhau giúp cho mọi người dễ dàng cập nhật kiến thức. Đặc biệt có tiêu điểm quan trọng cho các bạn trẻ hiện nay.

© 2025 - melodious

Kết nối với melodious

vntre
vntre
vntre
vntre
vntre
Lịch âm hôm nay 789club Sun win
  • Công Nghệ
  • Ẩm Thực
  • Kinh Nghiệm Sống
  • Du Lịch
  • Hình Ảnh Đẹp
  • Làm Đẹp
  • Phòng Thủy
  • Xe Đẹp
  • Du Học